Thuế nhà thầu nước ngoài và các điều khoản thương mại quốc tế Incoterms 2010


Theo quy định tại Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 60/2012/TT-BTC ngày 12/04/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 27/05/2012, thay thế cho Thông tư số 134/2008/TT-BTC ngày 31/12/2008) thì đối tượng áp dụng nộp thuế nhà thầu nước ngoài theo Thông tư này bao gồm:

“2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hoá tại Việt Nam theo hình thức xuất nhập khẩu tại chỗ và có phát sinh thu nhập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng ký giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài với các doanh nghiệp tại Việt Nam (trừ trường hợp gia công và xuất trả hàng hóa cho tổ chức, cá nhân nước ngoài) hoặc cung cấp hàng hoá theo điều kiện giao hàng DDP, DAT, DAP (Các điều khoản thương mại quốc tế – Incoterms).”

Vậy việc cung cấp hàng hoá theo các điều kiện giao hàng DDP, DAT, DAP có nghĩa là gì? Tại sao việc cung cấp hàng hoá theo 03 điều kiện giao hàng này thì thuộc đối tượng áp dụng thuế nhà thầu còn theo các điều kiện khác thì không? Đây là một vấn đề mới được quy định trong Thông tư số 60/2012/TT-BTC mà trước đây Thông tư số 134/2008/TT-BTC chưa đề cập đến. Vì vậy, để giúp cho người nộp thuế cũng như công chức thuế tìm hiểu về vấn đề này, bài viết này xin được trình bày, trao đổi một số nội dung về các điều khoản thương mại quốc tế (Incoterms) liên quan đến việc thực hiện chính sách thuế nhà thầu nước ngoài.

Tiếp tục đọc

Một số biến thể của điều kiện FOB và CIF trong thương mại quốc tế


Một số biến thể của điều kiện FOB trong thương mại quốc tế

FOB là điều kiện cơ sở giao hàng phổ biến được áp dụng trong phương thức vận tải đường biển. Tuy nhiên, bên cạnh điều kiện FOB được quy định theo Incoterms 2010 và các phiên bản trước đây của Incoterms do Phòng Thương mại Quốc tế ICC ban hành, trong thực tiễn hoạt động buôn bán quốc tế, FOB có một số biến dạng nhất định, doanh nghiệp nên biết cách dùng các biến dạng này nhằm hạn chế rủi ro về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cũng như tránh trả phí hai lần, cụ thể như sau: Tiếp tục đọc

Đã đến lúc cần từ bỏ quy tắc FOB và CIF khi mua bán hàng vận chuyển bằng container


Điều kiện FOB và CIF là những điều kiện thương mại quốc tế cổ điển nhất từng xuất hiện trong những phiên bản Incoterms đầu tiên trên thế giới do ICC (Phòng Thương mại quốc tế: International Chamber of Commerce) ấn hành năm 1937.

Giống như các điều kiện giao hàng khác, từ phiên bản Incoterms 2010, có hiệu lực từ 01/01/2011, ICC không gọi FOB và CIF là điều kiện nữa mà chuyển sang gọi là quy tắc FOB và CIF. Sở dĩ có sự thay đổi về tên gọi như vậy vì các quy tắc này quy định cụ thể, rõ ràng hơn và chi tiết hơn so với các phiên bản cũ. Từ cuối thế kỷ XX, do cuộc cách mạng về container và vận tải đa phương thức phát triển như vũ bão, ICC đã khuyến cáo hai quy tắc này (cũng như hai quy tắc FAS và CFR) chỉ thích hợp cho  mua bán hàng dạng rời (Bulk Cargo), khối lượng lớn vận chuyển bằng đường biển.

Tiếp tục đọc

Tổng hợp điểm mới Thông tư 38/2015/TT-BTC về Hải quan và Thuế


Từ 01/04/2015, Thông tư 38/2015/TT-BTC Quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu sẽ chính thức có hiệu lực.

Quy định mới tác động không nhỏ đến việc kinh doanh, thương mại hàng hóa trong thời kỳ hội nhập. Bài viết sau đây sẽ tổng hợp các điểm mới của Thông tư 38/2015/TT-BTC.

1/ Bãi bỏ hàng loạt các thủ tục thuế, hải quan.

Thông tư này bãi bỏ các Thông tư: 94/2014/TT-BTC , 22/2014/TT-BTC , 128/2013/TT-BTC ,196/2012/TT-BTC , 186/2012/TT-BTC ,  183/2012/TT-BTC , 15/2012/TT-BTC , 190/2011/TT-BTC ,45/2011/TT-BTC , 45/2007/TT-BTC , 13/2014/TT-BTC , 175/2013/TT-BTC , 237/2009/TT-BTC .

Tiếp tục đọc

Xác định nguyên liệu, vật tư dư thừa nhập khẩu để gia công


Phản ánh vướng mắc về việc xác định nguyên liệu, vật tư dư thừa nhập khẩu để gia công theo quy định tại khoản 5 Điều 64 Thông tư số 38/2015/TT-BTC Về vn đề này, Tổng cục Hải quan có ý kiến như sau: 

Theo quy định tại khoản 5 Điều 64 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính thì “nguyên liệu, vật tư thực nhập khẩu” là lượng nguyên liệu, vật tư thực tế nhập khẩu trên tờ khai hải quan nhập khẩu đã được thông quan theo quy định và được ghi nhận trên hệ thng sổ sách kế toán của doanh nghiệp đ thực hiện hợp đồng gia công. Lượng nguyên liệu, vật tư dư thừa không quá 3% tổng lượng nguyên liệu, vật tư thực nhập khẩu được áp dụng cho từng loại nguyên vật liệu.

Trường hợp nguyên liệu, vật tư dư thừa không quá 3% tng lượng nguyên liệu, vật tư thực nhập thì khi bán, tiêu thụ nội địa phải được thể hiện trong báo cáo quyết toán nhập – xuất – tồn mẫu số 15/BCQT-NVL/GSQLphụ lục V ban hành kèm theo Thông tư số 38/2015/TT-BTC dẫn trên; theo đó, tại cột số (8) phn ghi chú ghi rõ s lượng nguyên liệu, vật tư dư thừa không quá 3% đã chuyn tiêu thụ nội địa.

Tiếp tục đọc

Thông tư số 28/2015/TT-BCT ngày 20 tháng 08 năm 2015 quy định việc thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa


Bộ Công thương vừa ban hành Thông tư số 28/2015/TT-BCT ngày 20 tháng 08 năm 2015 quy định việc thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN.

Thông tư này quy định về việc thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo quy định của Bản ghi nhớ ký ngày 29 tháng 8 năm 2012 giữa các nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Cộng hòa Phi-líp-pin, Cộng hòa In-đô-nê-xi-a tại Xiêm-Riệp, Vương quốc Cam-pu-chia về thực hiện dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ số 2 (sau đây viết tắt là Bản ghi nhớ).

Đối tượng áp dụng theo Thông tư là thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN với thương nhân các nước thành viên Bản ghi nhớ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Thương nhân được Bộ Công Thương lựa chọn tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo quy định tại Thông tư này vẫn có quyền đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa mẫu D (sau đây gọi tắt là C/O mẫu D) theo quy định tại Thông tư số 21/2010/TT-BCT và Thông tư số 42/2014/TT-BCT.

Tiếp tục đọc

Hợp đồng ngoại thương và những vấn đề cần lưu ý


Theo Công ước Viên năm 1980: Hợp đồng ngoại thương là hợp đồng ký kết giữa các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Theo luật Việt Nam:
Hợp đồng ký với thương nhân nước ngoài có nghĩa là một bên là thương nhân Việt Nam một bên là thương nhân nước ngoài.

Tiếp tục đọc

Tổng quan về Incoterms 2010


Incoterms (viết tắt của International Commerce Terms – Các điều khoản thương mại quốc tế) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterm quy định những quy tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên mua) trong một hoạt động thương mại quốc tế

Incoterms quy định các điều khoản về giao nhận hàng hoá, trách nhiệm của các bên: Ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm trách các chi phí về thủ tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, ai chịu trách nhiệm về những tổn thất và rủi ro của hàng hoá trong quá trình vận chuyển…, thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hoá.

Incoterms 2010 là phiên bản mới nhất của Incoterm, được Phòng thương mại Quốc tế (ICC) ở Paris, Pháp và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Tiếp tục đọc

Nghĩa vụ của Người Mua và Bán trong các điều kiện thương mại mới của Incoterms 2010


 

incoterms-2010

NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI MUA VÀ NGƯỜI BÁN TRONG CÁC ĐIỀU KIỆN MỚI CỦA INCOTERMS 2010

DAT – Delivered At Terminal

Giao tại bến tới ( Bến tàu; Sân bay, Ga cuối cùng của cuộc hành trình …)

A. NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÁN TRONG DAT

A1. Nghĩa vụ chung của người bán

Người bán phải cung cấp hàng hóa và hóa đơn thương mại phù hợp với hợp đồng mua bán và cung cấp tất cả bằng chứng phù hợp khác mà hợp đồng có thể đòi hỏi.

Bất kỳ chứng từ nào được đề cập trong mục A1-A10 đều có thể là các chứng từ hoặc thông điệp điện tử tương đương nếu được các bên thảo thuận hoặc tập quán quy định.

A2. Giấy phép, kiểm tra an ninh và các thủ tục khác

Nếu có quy định, người bán phải tự chịu rủi ro và chi phí để lấy giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hoặc các giấy phép chính thức khác và làm tất cả tủ tục hải quan để xuất khẩu, để vận tải qua các nước.

Tiếp tục đọc

Bảo hiểm hàng hóa XNK trong thực hành Incoterms 2010


Rủi ro về vận tải và bảo hiểm hàng hóa

1.       Trách nhiệm của người vận tải
Người vận tải về nguyên tắc sẽ chịu trách nhiệm đưa hàng đến đích với tốc độ thông thường, hàng không bị hư hỏng hay mất mát gì.
Tuynhiên, trách nhiệm này được giới hạn thông qua các thông lệ quốc tế và thông quan các luật pháp và qui định của các quốc gia.
Qui tắc chủ yếu là người vận tải chịu trách nhiệm về mất mát hàng hóa do sự bất cẩn gây nên.
Vì những khó khăn trong nghĩa vụ chứng minh, nên trách nhiệm này đôi khi đã được giảm bớt đáng kể.
Và nghĩa vụ này cũng rất hạn chế về giá trị bằng tiền.
Nhiều chủ hàng cứ tưởng  rằng nếu như hàng hóa bị mất hay hư hỏng trong quá trình vận chuyển thì người vận tải sẽ phải chịu trách nhiệm hoặc sẽ bồi thường.
Suy nghĩ như vậy là bình thường và lôgic, nhưng trên thực tế lại không phải như vậy.
Do thiếu hiểu biết về những khía cạnh này mà nhiều khi các chủ hàng gửi hàng đi mà không mua bảo hiểm cho hàng hóa.

Tiếp tục đọc

INCOTERMS 2010 những thay đổi so với INCOTERMS 2000


INCOTERMS®2010

NHỮNG THAY ĐỔI SO VỚI INCOTERMS 2000

Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) thỉnh thoảng lại rà soát bộ INCOTERMS để đảm bảo rằng những qui tắc trong đó phản ánh và đáp ứng được những thông lệ và xu hướng thương mại hiện hành. INCOTERMS® 2010 là lần sửa đổi thứ tám đối với INCOTERMS kể từ khi bộ qui tắc này ra đời vào năm 1936.
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG
INCOTERMS là gì?
Là một loạt các điều khoản thương mại được quốc tế công nhận được Phòng Thương mại Quốc tế xuất bản, và được sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng mua bán quốc tế. Những điều khoản này cũng được sử dụng ngày càng nhiều trong thương mại nội địa.

Tại sao bộ INCOTERMS® 2010 lại được gọi là “các qui tắc”?
Là để thừa nhận bản chất hợp đồng của những điều khoản đó, và cũng là để phù hợp với chính sách chung của ICC – gọi các ấn phẩm của mình là “các qui tắc” (UCP 600, URDG 758, v.v.).
Bộ INCOTERMS bao gồm những nội dung gì?
Bộ qui tắc này qui định ai có những trách nhiệm gì, ai thanh toán khoản gì, khi nào thì rủi ro đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua, khi nào thì giao hàng, cũng như những vấn đề như bảo hiểm, làm thủ tục thông quan xuất nhập khẩu, và việc phân bổ các chi phí liên quan đến việc giao hàng.
Bộ qui tắc INCOTERMS không bao gồm nội dung gì?
Không có qui định về quyền sở hữu đối với hàng hóa, không qui định chi tiết về các nghĩa vụ thanh toán (thời hạn, phương thức, điều khoản đảm bảo thanh toán, chứng từ thanh toán), không qui định chi tiết về yêu cầu liên quan đến tàu, các trường hợp bất khả kháng, kết thúc hợp đồng, mất khả năng thanh toán. Nói tóm lại, INCOTERMS không cấu thành một hợp đồng mua bán đầy đủ mà chỉ là các qui tắc tiện lợi, được quốc tế công nhận về việc mua bán hàng hóa. Những qui tắc này phát huy tác dụng tốt như một hợp đồng sơ lược cần phải được cụ thể hóa và điều chỉnh với những điều khoản và điều kiện thêm nữa.
Các qui tắc này được sử dụng như thế nào?
Chúng được đưa vào trong hợp đồng mua bán bằng cách dẫn chiếu (VD: “FCA 38 Cours Albert 1er, Paris, France Incoterms® 2010”). 1 “Incoterms” là một nhãn hiệu được đăng ký bản quyền của ICC – tham khảo trang web http://www.iccwbo.org

Tại sao các qui tắc này lại được sửa đổi?
Để phản ánh sự mở rộng của các khu vực mậu dịch tự do, việc sử dụng các phương tiện giao tiếp điện từ, các quan ngaiị về an ninh sau sự kiện 11 tháng 9, và những biến đổi gần đây trong vận tải và thương mại quốc tế kể từ lần sửa đổi năm 2000.
Khi nào thì bộ qui tắc này được sửa đổi?
Các qui tắc mới sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2011.
Thế còn những hợp đồng đã kí kết trước ngày 1/1/2011 thì sao?
Đối với những hợp đồng đã kí kết, bộ qui tắc INCOTERMS 2000 vẫn tiếp tục được áp dụng (nếu được đưa vào trong hợp đồng) ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng diễn ra vào năm 2011 hoặc thậm chí sau đó. Sau ngày 1/1/2011, các hợp đồng mới được kí kết, nếu có dẫn chiếu đến
“INCOTERMS”, thì có thể được hiểu là INCOTERMS 2010, nhưng việc áp dụng phiên bản 2000 hay 2010 còn phụ thuộc vào các hoàn cảnh của hợp đồng mua bán. Bất kì sự không chắc chắn và tranh chấp có thể xảy ra nào đều phải được loại trừ bằng cách đưa các điều khoản INCOTERMS 2010 một cách rõ ràng vào trong hợp đồng mua bán!
Có thể vẫn sử dụng INCOTERMS 2000 sau ngày 1/1/2011 không?
Chắc chắn là có. Incoterms (dù là phiên bản 2010 hay 2000) đều chỉ là các qui tắc áp dụng trong hợp đồng, cho nên tùy thuộc vào các bên tham gia hợp đồng (người bán và người mua) sẽ quyết định sử dụng chúng như thế nào và đưa chúng một cách rõ ràng vào trong hợp đồng mua bán. Hai bên có thể chọn áp dụng bất kì phiên bản nào họ muốn! Tuy nhiên khuyến nghị là các bên nên bắt đầu sử dụng bộ qui tắc mới Incoterms 2010 càng sớm càng tốt, vì những qui tắc này phản ánh các qui tắc hiện đại, cập nhật, phản ánh những tiến bộ mới nhất trong thương mại quốc tế. Những lần sửa đổi trước đã lỗi thời và thiếu sự chính xác so với bộ qui tắc mới Incoterms 2010!
Tại sao tôi lại phải quan tâm đến INCOTERMS 2010?
Bạn sẽ cần phải: kiểm tra các mẫu hợp đồng chuẩn của mình; cân nhắc đến những thay đổi trong phiên bản INCOTERMS 2010; thực hiện những thay đổi tương ứng (ví dụ như đổi điều khoản DES hay DDU trong INCOTERMS 2000 thành DAP INCOTERMS 2010) trong các mẫu hợp đồng chuẩn của bạn đối với các hợp đồng mới; và công bố những thay đổi này cho đối tác biết, cũng như cho những nhân viên kinh doanh và nhân viên thực hiện hợp đồng của bạn biết; bắt đầu sử dụng INCOTERMS 2010 như chuẩn mực trong các hợp đồng mua bán mới của bạn.
Bộ qui tắc INCOTERMS® 2010 có những thay đổi nào mà bạn cần lưu ý?

1. Bỏ 4 điều khoản (DAF, DES, DEQ và DDU) và đưa vào 2 điều khoản mới (DAP – Delivered at Place và DAT – Delivered at Terminal).
2. Chính thức tạo ra hai loại INCOTERMS – (1) các qui tắc áp dụng cho bất cứ phương thức vận tải nào, và (2) các qui tắc áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa (INCOTERMS 2000 có 4 loại).
3. Chính thức thừa nhận rằng những qui tắc này có thể sử dụng cả trong thương mại quốc tế và thương mại nội địa (nếu phù hợp). Điều khoản EXW được nói rõ là chỉ phù hợp cho thương mại nội địa.
4. Nêu rõ tham chiếu đến việc sử dụng “các phương tiện ghi chép điện tử có giá trị tương đương “, nếu như các bên đồng ý như vậy, hoặc đó là tập quán thương mại.
5. Sửa đổi điều khoản bảo hiểm để phản ánh những thay đổi đối với Các điều khoản bảo hiểm chuẩn (Institute Cargo Clauses (theo những thay đổi gần đây đối với các điều khoản bảo hiểm LMA/IUA2 vào năm 2009).
6. Phân bổ các nghĩa vụ tương ứng của các bên trong việc cung cấp hoặc hỗ trợ để lấy được các chứng từ và thông tin cần thiết nhằm thông quan liên quan đến an ninh.
7. Trách nhiệm đối với các khoản phí xếp hàng tại ga/trạm được phân bổ rõ ràng.
8. Bao gồm nghhĩa vụ “mua” hàng hóa để phản ánh những thông lệ hiện nay trong mua bán hàng theo dây chuyền (mua bán hàng đã được xếp lên tàu – có nghĩa là hàng đã ở trên boong tàu).
CÁC VẤN ĐỀ CHI TIẾT
1. Bỏ 4 điều khoản trong INCOTERMS 2000
Xu hướng container hóa và giao hàng từ điểm này đến điểm khác ngày càng nhiều dường như đã khiến cho ICC phải có những sửa đổi quan trọng và đưa ra hai điều khoản mới về “đã giao hàng”:

Delivered At Place (DAP) được sử dụng thay cho DAF, DES và DDU; và Delivered At Terminal (DAT) thay thế cho DEQ. Những điều khoản này có thể được sử dụng với bất kì phương thức vận tải nào. Một lí do có ít điều khoản hơn đơn giản là các bên thường chọn “nhầm” điều khoản hoặc lẫn lộn các điều khoản, dẫn đến các hợp đồng có nội dung mẫu thuẫn hoặc không rõ ràng.
Chú thích: Hiệp hội thị trường bảo hiểm Lloyd’s (Lloyd’s Market Association LMA) và Hiệp hội các nhà bảo hiểm quốc tế của London IUA.Điều khoản DAF của Incoterm 2000 không còn đáp ứng nhu cầu thương mại và thực tế còn gây ra vấn đề khi người mua không thể kiểm tra hàng hóa trước khi hàng đến điểm đích, mà thường điểm đích lại nằm xa hơn điểm giao hàng (tức là biên giới).
Đối với cả hai điều khoản mới – (DAP) và Delivery at Terminal (DAT) – việc giao hàng diễn ra tại điểm đích đã xác định.
Qui tắc mới DAP trong Incoterm 2010 (Delivery at Place) bao gồm tất cả các trường hợp người bán giao hàng cho người mua trên phương tiện vận tải đến mà chưa dỡ hàng xuống, là những trường hợp trước đó được qui định bởi các điều khoản DAF, DES cũng như tất cả các trường hợp giao hàng tại cơ sở của người mua hay điểm đích nào khác tại nước của người mua mà trước đó được qui định bởi điều khoản DDU.
Đối với điều khoản DAP, “phương tiện vận tải đến” cũng có thể là một con tàu, và “điểm đích xác định” có thể là cảng dỡ.
Với qui tắc mới DAT của Incoterm 2010 (Delivered at Terminal), việc giao hàng diễn ra khi hàng hóa được giao vào quyền định đoạt của người mua tại ga/trạm xác định tại cảng hoặc tại điểm đích chưa được dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải đến.

Điều khoản DAT của Incoterm 2010 thay thế cho điều khoản DEQ trước đó của Incoterms 2000 (Delivered Ex Quay) vốn chỉ phù hợp cho hàng nguyên liệu.

Incoterms 2000 không có giải pháp thỏa đáng cho các điều khoản “D” đối với trường hợp hàng hóa được giao mà chưa dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải đến tại trạm/ga. Điều khoản mới DAT của Incoterm 2010 (Delivered at Terminal) đã giải quyết được vấn đề này và bao gồm tất cả các trường hợp trước đó được qui định bởi điều khoản DEQ. “Trạm xác định” trong điều khoản DAT có thể là cầu cảng tại cảng dỡ hoặc trạm container tại cảng dỡ.
2. Đưa ra hai loại điều khoản thay vì bốn loại như trước kia
11 điều khoản được chia thành hai loại: giao hàng bằng bất kì phương thức vận tải nào (vận tải biển, đường bộ, hàng không, đường sắt, đa phương thức) – EXW, FCA, CPT, CIP,DAP, DAT và DDP; và giao hàng bằng vận tải đường biển/đường thủy nội địa – FAS, FOB, CFR và CIF.
3. Các qui tắc được điều chỉnh
Bộ qui tắc INCOTERMS mới được nêu rõ là có thể sử dụng “cả cho thương mại quốc tế và Thương mại nội địa”. Điều này là nhờ những câu trong các qui tắc rằng nghĩa vụ thực hiện các thủ tục hải quan xuất nhập khẩu chỉ tồn tại trong trường hợp có liên quan đến xuất nhập khẩu.
Chú thích: đối với các khối thương mại (như EU) khi các thủ tục “biên giới” không còn, và ở Hoa Kì khi ngày càng nhiều người muốn sử dụng INCOTERMS hơn là các điều khoản giao hàng trong Uniform Commercial Code, các điều khoản mới giờ đây trở nên dễ áp dụng hơn.
4. Các ghi chép điện tử
Các nghĩa vụ của người bán và người mua trong việc cung cấp các chứng từ hợp đồng giờ đây có thể được thực hiện bằng “bản điện tử nếu các bên đồng ý hoặc đó là tập quán”, phản ánh sự thừa nhận của ICC về tầm quan trọng ngày càng tăng và tính chắc chắn về hợp đồng (nhờ tốc độ chuyển thông tin nhanh chóng) mà giao tiếp bằng điện tử mmang lại. Điều này cũng đảm bảo sự phù hợp của INCOTERMS 2010 trong tương lai khi các giao tiếp/thủ tục điện tử ngày càng phát triển.
INCOTERMS 2000 yêu cầu người bán và người mua phải thống nhất rõ rang là sẽ giao tiếp với nhau bằng đường điện tử để trao đổi dữ liệu điện tử tương đương và chấp nhận chúng như bằng chứng về chứng từ giao hàng/vận tải.
5. Các điều khoản bảo hiểm hàng hóa chuẩn
Khi một điều khoản trong INCOTERM yêu cầu người bán phải mua bảo hiểm, thì các yêu cầu bảo hiểm đều đã được sửa đổi để phản ánh những sửa đổi trong các điều khoản bảo hiểm hàng hóa chuẩn. Nghĩa vụ của các bên về bảo hiểm cũng đã được làm rõ: chỉ theo CIF và CIP thì người bán mới có nghĩa vụ mua bảo hiểm vì quyền lợi của người mua, tuy nhiên trong tất cả các điều khoản giao hàng, các bên đều có nghĩa vụ cung cấp cho bên kia, nếu có yêu cầu, những thông tin cần thiết để mua bảo hiểm hay mua them bảo hiểm cho hàng hóa (hoặc tự mua hoặc nhờ bên kia mua hộ vì lợi ích của mình). Các qui tắc Incoterms 2010 qui định về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong các Điều A3/B3, là những điều nói về kí kết hợp đồng vận tải và bảo hiểm. Những điều này giờ đây đã được tách khỏi những điều qui định chung trong phần
A10/B10 của các qui tắc Incoterms 2000. Ngôn ngữ trong các điều A3/B3 liên quan đến bảo hiểm cũng đã được sửa đổi để làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề này.
6. An ninh
Vấn đề an ninh hàng hóa/tàu biển, v.v giờ đây là mối quan tâm hàng đầu của mọi người khi nói đến thương mại quốc tế. Vì ngày nay hầu hết các nước đều yêu cầu kiểm tra an ninh nghiêm ngặt nên các qui tắc thương mại quốc tế cũng yêu cầu cả hai bên đều phải cung cấp tất cả những thông tin cần thiết (như thông tin về những người cầm giữ hàng hóa trong quá trình vận chuyển) để làm thủ tục thông quan xuất nhập khẩu. Các qui tắc cũng phân bổ rõ rang các chi phí có liên quan. Trong các qui tắc A2/B2 và A10/B10 của mỗi điều khoản Incoterm, nghĩa vụ
của người bán và người mua về thông tin cần cung cấp cho bên kia hay sự hỗ trợ để lấy được thông tin đó cũng được nêu rõ. Các phiên bản INCOTERMS trước đây không yêu cầu chi tiết về mức độ hợp tác như vậy.
7. Các khoản phí bốc xếp tại ga/trạm
Trong trường hợp người bán phải thuê và thanh toán cho việc vận chuyển hàng hóa đến một điểm đích nhất định (CIP, CPT, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP), có thể các chi phí bốc xếp hàng hóa đã được chuyển sang cho người mua thông qua giá cả của hàng hóa. Tuy nhiên, từ trước đến nay, trong một số trường hợp, người mua vẫn có thể phải thanh toán khoản này cho nhà ga (tức là chịu phí hai lần). INCOTERMS® 2010 đã cố gắng khắc phục tình trạng này bằng cách làm rõ ai sẽ chịu trách nhiệm thanh toán các chi phí ở ga/trạm. Tuy nhiên, vẫn phải chờ
thêm một thời gian nữa để xem liệu qui định của Incoterms có chấm dứt được tình trạng người mua phải chịu phí hai lần như trước nữa hay không.
8. Bán hàng dây chuyền
Trong các hợp đồng mua bán “hàng nguyên liệu” (khác với hàng chế tạo), thường có trường hợp hàng hóa được bán tiếp một vài lần trong quá trình vận chuyển (tức là bán dây chuyền, hay bán hàng trong quá trình vận chuyển). Trong những trường hợp như vậy, người bán ở giữa dây chuyền không phải là người gửi hàng đi, bởi vì hàng đã được gửi đi bởi người bán ở đầu dây chuyền. Do đó, nghĩa vụ của người bán ở giữa dây chuyền là mua hàng hóa mà đã được gửi đi. Bộ INCOTERMS mới làm rõ điều này bằng cách cho them cụm từ “nghĩa vụ mua hàng hóa đã được gửi đi” như một nghĩa vụ thay thế cho nghĩa vụ gửi hàng. Điều này phù hợp với các trường hợp FAS, FOB, CFR và CIF vì về nguyên tắc nó chỉ có thể được thực hiện khi sử dụng vận đơn hay một chứng từ sở hữu có tính chất tương đương.
9. Lưu ý hướng dẫn
Trong ấn phẩm Incoterms® 2010, bạn sẽ thấy có một phần Lưu ý hướng dẫn trước mỗi điều khoản. Phần lưu ý này giải thích những nội dung căn bản của mỗi điều khoản. Các lưu ý hướng dẫn không phải là một phần của các qui tắc trong Incoterms 2010, mà chỉ nhằm mục đích giúp cho người sử dụng hiểu rõ hơn về các qui tắc này.
Ví dụ, lưu ý hướng dẫn cho các điều khoản CPT và CIP Incoterm 2010 nhấn mạnh rằng theo những điều khoản này, người bán được coi là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi anh ta giao hàng cho người vận tải chứ không phải là khi hàng đến điểm đích. Những qui tắc này có hai điểm mấu chốt, bởi vì rủi ro và chi phí được chuyển giao ở các địa điểm khác nhau. Rủi ro đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua khi hang được giao cho người vận tải đầu tiên, tuy nhiên người bán cũng chịu trách nhiệm thuê hay mua hợp đồng vận tải hàng hóa đến điểm đích xác định. Tương tự như vậy, với các điều khoản CFR và CIF trong Incoterms 2010, rủi ro và chi phí được chuyển giao ở những nơi khác nhau.

10. Điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua trong các
trường hợp FOB, CFR và CIF Các điều khoản FOB, CFR và CIF của Incoterms đều bỏ phần nói đến lan can tàu như là điểm giao hàng, thay vào đó là nói đến hàng được giao “lên boong” tàu. Điều này phản ánh chính xác hơn thực tế thương mại hiện đại và tránh hình ảnh lỗi thời của việc tưởng tượng rủi ro đang “treo lơ lửng và đung đưa” qua lại một đường tưởng tượng (là lan can tàu).
11. Sử dụng cụm từ “đóng gói”
Đã được đóng gói: từ này được sử dụng cho các mục đích khác nhau:
Đóng gói hàng hóa theo yêu cầu trong hợp đồng mua bán. ·
Đóng gói hàng hóa sao cho phù hợp với việc vận chuyển. ·
Việc xếp hàng đã đóng gói trong container hay các phương tiện vận tải khác.

Trong các qui tắc Incoterms 2010, đóng gói có cả hai nghĩa thứ nhất và thứ hai nêu trên. Các qui tắc Incoterms 2010 không nói đến nghĩa vụ của các bên trong việc xếp hàng vào container và do đó các bên liên quan phải thống nhất cụ thể về vấn đề này trong hợp đồng mua bán. Incoterms 2000 không có qui định rõ ràng về vấn đề này.

INCOTERMS 2010 HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG VÀ PHÂN LOẠI CÁC ĐIỀU KHOẢN


Hướng dẫn sử dụng Incoterms 2010


INCOTERMS là một bộ các quy tắc nhằm hệ thống hóa các tập quán thương mại quốc tế được áp dụng phổ biến bởi các doanh nhân trên khắp thế giới. Đến nay, sau 7 lần sửa đổi, Incoterms 2010 đã chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2011.

Tiếp tục đọc

NHỮNG VẤN ĐỀ LƯU Ý KHI THỰC HÀNH INCOTERMS 2010




Incoterms 2010 sẽ đưa vào áp dụng các thông lệ mới nhất trong thương mại, cập nhật và tổng hợp một số các quy tắc cũ. Hệ thống phân loại mới của Incoterm 2010 phân chia quy tắc của 11 thông lệ thương mại thành hai nhóm riêng biệt: (1). Nhóm các quy tắc áp dụng cho tất cả các hình thức vận tải và (2). Nhóm các quy tắc áp dụng cho vận tải đường thủy. Ngoài 11 quy tắc mới cập nhật, Incoterms 2010 còn bao gồm các nội dung: Mở rộng các ghi chú hướng dẫn và hình ảnh minh họa để giúp người sử dụng chọn lựa đúng nguyên tắc cho mỗi giao dịch một cách hiệu quả; Đưa ra sự phân loại mới để giúp lựa chọn các quy tắc thích hợp nhất liên quan đến các phương thức vận tải; Lời khuyên cho việc sử dụng các thủ tục điện tử; Thông tin về thông quan an ninh liên quan đến cho các lô hàng; Tư vấn về việc sử dụng Incoterms 2010 trong thương mại trong nước. Tiếp tục đọc

THUẬT NGỮ TIẾNG ANH TRONG XUẤT NHẬP KHẨU


Xin tổng hợp các thuật ngữ cơ bản thường hay sử dụng trong nghiệp vụ xuất nhập khẩu

Đọc thêm>> Một số thuật ngữ trong Shipping Terms

Tiếp tục đọc

QUY TRÌNH XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA


 Muốn nhập khẩu hàng hóa thì trước tiên bạn phải có giấy phép kinh doanh nhập khẩu mặt hàng đó. Sau đó khi bạn có được nguồn hàng nhập thì ký kết Hợp đồng ngoại thương, trong hợp đồng sẽ quy định cụ thể phương thức Thanh toán quốc tế cũng như các giấy tờ cần thiết để bạn có thể nhận hàng khi hàng về đến Việt Nam.

Thường thì phương thức thanh toán sẽ là Thư tín dụng (Letter of Credit – L/C) vì người bán bên nước ngoài không tin tưởng lắm về việc thanh toán bằng chuyển tiền của các doanh nghiệp Việt Nam.

Quy trình đầy đủ để xuất nhập khẩu hàng hóa sơ lược thì L/C là 1 thư tín dụng, qua đó ngân hàng người mua cam kết sẽ thanh toán lô hàng cho người bán thông qua ngân hàng người bán. Việc mở Thư tín dụng đơn giản, bạn chỉ cần mang hợp đồng đến Ngân hàng và nộp tiền ký quỹ để mở Thư tín dụng. Nếu công ty bạn có quan hệ tốt và uy tín với Ngân hàng thì chỉ cần ký quỹ 10 hay 20% trị giá hợp đồng tùy theo Ngân hàng, khi hàng về bạn sẽ trả nốt phần còn lại hay có thể vay của Ngân hàng cũng được. Ngân hàng sẽ đứng ra thay bạn trong việc thanh toán cho phía nước ngoài.

Tiếp tục đọc

Một số thuật ngữ trong Shipping Terms


A    

Abatement
Sự giảm giá(Hàng hóa, cước phí,…)

Sự giảm giá(Hàng hóa, cước phí,…)

Accept except
Chấp nhận nhưng loại trừ

Thuật ngữ được người thuê tàu hoặc đại lý thuê tàu sử dụng trong giao dịch để chỉ mình chấp nhận một số điều khoản hoặc chi tiết nào đó nhưng không chấp nhận các phần khác bị loại trừ sẽ được gạt bỏ hoặc sửa đổi theo yêu cầu.

Accomplished bill of lading
Vận đơn đã nhận hàng

Vận đơn gốc đã được trao cho người chuyên chở (Surrendered) tại cảng dở và hàng đã được nhận xong.

Abandonment
Sự khước từ:

Là việc từ chối thực hiện một hành động. (abandonment of action). Thí dụ: Khước từ việc thưa kiện, truy cứu, chuyến hành trình, việc giao nhận hàng vì những lý do nào đó. 2. Sự từ bỏ: Là việc từ bỏ một tài sản được bảo hiểm (Abandonment of insured property) trong trường hợp tài sản bị tổn thất coi như toàn bộ ước tính (constructive total loss). Chủ tài sản phải làm văn bản từ bỏ tài sản và thực hiện việc chuyển quyền sở hữu tài sản ấy cho người (công ty) bảo hiểm, để được người này xem xét từ chối hoặc chấp nhận bồi thường toàn bộ lô hàng. Ví dụ: Tàu bị đắm ở biển sâu, trục vớt khó khăn và tốn kém nên chủ tàu tuyên bố từ bỏ tàu, chuyển quyền sở hữu con tàu cho người (công ty) bảo hiểm xem xét từ chối hoặc chấp nhận bồi thường theo giá trị bảo hiểm của tàu. Nếu người bảo hiểm từ chối bồi thường tổn thất toàn bộ với lý do chính đáng, thì họ sẽ bồi thường tổn thất bộ phận (Partial loss). Tiếp tục đọc

Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu


LỜI GIỚI THIỆU

 

Những Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu ( ấn bản số 458 của ICC ) là kết quả lao động của các thành viên ICC Joint Working Party đại diện cho Uỷ ban thực hành quốc tế (Comissison on International Practice), Uỷ ban Công nghệ và hoạt động ngân hàng (Comissison on banking Technique and Practice) và cũng là kết quả làm việc của nhóm soạn thảo (Drafting Group)- những người đã hoàn thành văn bản này. Các Quy tắc này được soạn thảo nhằm phổ biến khắp thế giới việc sử dụng bảo lãnh theo yêu cầu (gồm bảo lãnh thư, bảo lãnh chứng thư và những đảm bảo thanh toán khác ) mà nghĩa vụ thanh toán của Người bảo lãnh hay Người phát hành bảo lãnh phát sinh khi có sự xuất trình của bất kỳ văn bản yêu cầu và bất kỳ chứng từ nào khác quy định trong thư bảo lãnh mà không đặt điều kiện phải có sự vi phạm trên thực tế của người được bảo lãnh trong giao dịc giữa Người bảo lãnh và người thụ hưởng (Giao dịch cơ sở) Tiếp tục đọc

Vận đơn đường biển – Ocean Bill of Lading – B/L


Vận đơn đường biển là chứng từ chuyên chở hàng hoá bằng đường biển do người chuyên chở hoặc đại diện của người chuyên chở phát hành cho người gửi hàng sau khi hàng hoá đã được xếp lên tàu hoặc sau khi nhận hàng để xếp.

Tiếp tục đọc

Nghị định thư VISBY 1968


Các bên ký kết.

Xét thấy cần phải sửa đổi bổ sung cho Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc luật pháp liên quan đến vận đơn, ký tại Brussels ngày 25-08-1924. Tiếp tục đọc

SỐ IBAN, BBAN, BIC, SWIFT LÀ GÌ?


Khi giao dịch thanh toán quốc tế chúng ta thường gặp các code này, và thời gian gần đây sau khi khối châu Âu áp dụng IBAN code thì mọi việc trở nên rắc rối, thường xuyên phải nghe khách phàn nàn là không chuyển tiền được, số tài khoản của công ty có vấn đề, vv và vv … Để giải quyết những rắc rối trên chúng ta hãy cùng nghiên cứu những khái niệm dưới đây:

%d người thích bài này: