|
|||
Theo đó, có khi dự án được cấp phép trong năm nhưng chưa giải ngân được trong năm đó phải loại ra, ngược lại có những dự án được cấp phép trong những năm trước đó có giải ngân vốn lại được thống kê vào trong năm tính toán. Tính theo cách trên thì tỷ lệ vốn thực hiện năm 2007 sẽ được cải thiện hơn. Chúng ta ít công bố số vốn của các dự án bị rút giấy phép và bị giải thể trước thời hạn. Được biết, số dự án bị rút giấy phép năm 2005 là 1,27 tỉ đô la, chiếm tỷ lệ so với vốn đăng ký được cấp phép trong cùng năm đó khoảng 20%. Tính theo cách tính của vốn thực hiện đã nêu trên thì tỷ lệ vốn thất bại của năm 2005 sẽ cao hơn vì mấy năm trước 2005 ta thu hút được ít vốn FDI hơn. Con số này nói lên môi trường đầu tư kinh doanh tuy đã được cải thiện nhiều, nhưng vẫn còn tiềm ẩn không ít yếu tố rủi ro. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 có quy định hình thức đầu tư sáp nhập, mua lại (điều 153 và điều 22,25) theo hình thức đầu tư trực tiếp, tức là nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Trong Báo cáo đầu tư thế giới năm 2007 của UNCTAD, hoạt động sáp nhập, mua lại (M&A) năm 2006 rất sôi động, đạt 880 tỉ đô la, trong khi con số thu hút FDI là 1.306 tỉ đô la. Ở nước ta năm 2006 đã có 32 vụ M&A thành công với tổng giá trị 245 triệu đô la, vượt xa năm 2005 là 18 vụ với 61 triệu đô la (vnexpress.net ngày 30/5/2007). Trong công bố thu hút FDI năm 2007 nếu chưa có hình thức M&A thì cần bổ sung vào. Trong con số thu hút FDI của năm 2007 có 8,5 tỉ đô la là đầu tư vào dịch vụ trong đó phần lớn là kinh doanh bất động sản. Điều này cần được phân tích sâu hơn là đơn giản đưa ra nhận định nó phù hợp với cam kết gia nhập WTO. Báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) về 200 doanh nghiệp lớn nhất của Việt Nam tháng 9/2007 có cảnh báo: Các doanh nghiệp lớn đang thực hiện phong trào đầu tư vào bất động sản và chứng khoán, chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực đầu tư cốt lõi, làm cho sản xuất, kinh doanh thêm rủi ro và khó thực hiện. Có lẽ FDI năm 2007 cũng bị cuốn vào “vòng xoáy” của các doanh nghiệp lớn trong nước với sự dẫn dắt của các doanh nghiệp này. Trong công nghiệp, cần định rõ số vốn thu hút được vào công nghiệp phụ trợ, vì nó góp phần quan trọng vào giảm tỷ lệ nhập siêu cao và kiềm chế tốc độ tăng giá (CPI) trong những năm tới. Làm rõ được các con số trên về thu hút FDI sẽ giúp các cơ quan hoạch định chính sách của Nhà nước, trước mắt là kỳ họp Quốc hội đầu năm 2008, có điều kiện thuận lợi hơn để xem xét, đưa ra quyết sách sát thực tiễn hơn, đúng đắn hơn. Có làm được hay không phụ thuộc vào quyết tâm của các cơ quan chức năng Nguon VnEconomy |
Filed under: Thông tin kinh tế - xã hội |
Bình luận về bài viết này