Tín dụng thư dự phòng ra đời từ nước Mĩ do Đạo Luật ngân hàng nội địa National Bank Act 1864) quy định về phạm vi hoạt động của các ngân hàng không cho phép các ngân hàngthương mại Mĩ đứng ra cam kết trả nợ cho khách hàng. Trong khi đó các loại hình kinh doanhngày càng trở nên đa dạng và phức tạp làm cho tính rủi ro đối với các giao dịch ngày càng tăng.Vì vậy nhu cầu bảo lãnh
tại thị trường ngày cũng tăng theo nên các ngân hàng Mĩ buộc phải tìmcách thức nào đó để cung cấp dịch vụ bảo lãnh mà vẫn không phạm luật. Từ đó một hình thức bảo lãnh tài chính của các ngân hàng cho khách hàng nhưng dưới hình thức chấp nhận hối phiếuđược xuất trình đúng theo yêu cầu của tín dụng thư ra đời và nhận được sự ủng hộ rộng rãi củakhách hàng, các ngân hàng và các toà tiểu bang Mĩ vì tính tiện lợi của nó.
Tháng 5 năm 1977, Luật diễn giải Mĩ được ban hành cho phép các ngân hàng thương mạiMĩ được bảo lãnh cho khách hàng thông qua việc phát hành tín dụng thư. Theo đó ngân hàng chỉcó trách nhiệm thanh toán khi nhận được hối phiếu hoặc các chứng từ đòi tiền khác Demand of Payment) yêu cầu thanh toán theo đúng qui định của tín dụng thư dự phòng mà không phải chịutrách nhiệm về sự kiện vi phạm có thực sự phát sinh hay không hay về những vấn đề phát sinh từhợp đồng gốc.Sau khi Điều khoản diễn giải đuợc ban hành, tại các ngân hàng thương mại Mĩ đã hìnhthành nên một tập quán trả tiền cho mệnh lệnh đòi tiền của người hưởng lợi một khi nó được xuất trình cùng với một văn bản tuyên bố đã có sự vi phạm hợp đồng từ phía người yêu cầu mở thư tín dụng. Nhờ có hành lang pháp lý này một loại hình giao dịch bảo lãnh mà không có têngọi là bảo lãnh đã ra đời với tên gọi tín dụng thư dự phòng Standby Letter of Credit).
Filed under: Kinh tế học, Thanh toán quốc tế, Thương mại quốc tế | Tagged: Ấn bản số 590 của Phòng thương mại quốc tế-1998, International Standby Pratices, Quy tắc thống nhất về thư tín dụng dự phòng, Standby L/C | 9 Comments »